CHUYỆN TÌNH TRÊN ĐỈNH SỈN KHÂU
Dòng nước mắt chảy
dài trên khuôn mặt khắc khổ, già nua của bà Lẻng. Bà ôm chặt thằng Min vào
lòng, như giữ lấy không cho ai mang nó đi. Giọng bà nghèn nghẹn:
- Min là con của bà
chứ, không được cho người khác đâu...
Pằng nấu rượu trong
bếp, nghe rõ tiếng mẹ chồng nựng cháu ngoài sàn, nước mắt chảy dài. Từ hôm đưa
nó về, bà không rời nó, bà sợ sang tay Pằng là lại mang nó đi cho. Mắt cay xè,
giọt nước mắt đắng chát trào ra, quá khứ bỗng dội về.
Ngày ấy, Pằng yêu Páo
cùng bản. Một tuần mới có một phiên chợ huyện, người xuống chợ mua bán, người
xuống chợ tìm gặp bạn bè, thanh niên hẹn hò tìm người thương. Páo hẹn Pằng
xuống chợ, vừa đến đầu chợ Pằng đã thấy Páo đứng đợi, chạy đến vui mừng nắm
tay, dắt Pằng đi lòng vòng quanh chợ. Gặp mấy anh bạn của Páo ở Chúng Chải họ
vào quán thắng cố uống rượu.
Mặt trời ngả bóng,
chợ phiên đông đúc, thưa dần cuộc rượu vui gặp bạn mới tàn. Men rượu nồng đã ngấm,
mặt ai cũng đỏ bừng, nói cười vui vẻ, họ rủ anh Páo về nhà họ chơi. Vui bạn,
Páo bảo: “ Pằng về trước cùng các bạn gái, anh sang xã bạn chơi.”
Nói rồi anh Páo theo
bạn lên đường, không để ý đến tâm trạng của Pằng.
Nắng nhạt nhòa chống
chếnh, đang vui, cái buồn như đám mây che khuất mặt trời, đi bên bạn giữa chợ
đông vui, Pằng như bị bỏ rơi giữa chốn không người. Không muốn cho Páo đi, Pằng
không dám nói, đôi mắt buồn xa xăm, nụ cười gượng gạo, chỉ mong Páo hiểu được
lòng Pằng, mà quay lại, cùng về.
Trời chiều, chợ tan,
trên các ngả đường từng đoàn người đi chợ về, lưng đeo quẩy tấu nặng trĩu,
chuyện trò râm ran. Trai gái kéo nhau cười đùa vui vẻ, Pằng thấy chạnh lòng,
chẳng nói chuyện với ai, bước đi lầm lũi theo bạn về bản.
Những tia nắng cuối
cùng đã vượt qua ngọn núi. Dòng suối Nắm Dẩn
chiều thu, trong xanh thăm thẳm dưới khe sâu. Chiếc cầu Na Lan treo leo trên
vách đá, ghép bằng mấy cây sa mộc, ghim vào nhau bằng đinh và dây thép. Pằng đi
trên cầu, quay lại, nhìn lên đỉnh dốc, xem người yêu có đổi ý quay về không,
trượt chân ngã nhào xuống suối. Mấy cô bạn đi cùng, chỉ biết đứng đấy gọi người đến cứu, không ai dám
lội xuống cứu bạn.
Anh Khún đi chợ về,
thấy thế vội lao xuống, lặn hụp hồi lâu vớt Pằng lên. Pằng bất tỉnh, người mềm nhũn, tím
nhợt. Anh Khún vội cầm hai chân dốc
ngược lên, chạy dọc bãi cát, nước từng trong
miệng Pằng ộc ra. Anh cởi nhanh nút áo ngực, dùng miệng mút mũi, hà hơi thổi ngạt, ấm tay vào ngực nhịp nhàng hô hấp trợ thở. Đầu Pằng
động đậy, rồi hắt xì hơi mấy cái, nhẹ nhàng thở.
- Sống rồi!
Anh Khún reo lên, anh
cố cứu chữa nạn nhân, chẳng để cô gái đang mặc váy
ngắn, khi dốc ngược lên, đôi chân trần lộ ra,
các bạn đi cùng lấy tay che mặt. Lúc cởi nút áo, khuôn ngực tròn căng thiếu nữ
tím tái, nhợt nhạt, khi thở được, dần chuyển sang trắng hồng, da dẻ tươi tắn
trở lại. Cài lại nút áo cho cô, anh ngồi xuống đỡ đầu tựa vào ngực anh để cho
cô dễ thở. Hỏi mấy cô gái đi cùng, anh mới biết, cô gái anh cứu tên là Pằng.
Nhịp thở đều, mỗi lúc
một sâu hơn, Pằng mở mắt, ngơ ngác nhìn quanh, rồi nhắm mắt lại, đã tỉnh, nhưng
còn mệt lắm. Anh Nghĩ, cô ấy không
thể tự về nhà được. Bế Pằng lên ngựa của anh, cùng các bạn đưa cô về nhà.
Màn đêm buông dần,
vầng trăng đầu tháng lơ lửng trên bầu trời trong, nhấp nháy những ngôi sao
thưa. Trên núi, ánh điện lấp lánh của Bản làng hắt lên như những chùm sao sa
xen lẫn vào bầu trời. Nhà Pằng, ngôi nhà trình tường rộng rãi, sạch sẽ trên
đỉnh Sỉn Khâu.
Bạn gái đi cùng kể
cho bố mẹ Pằng nghe chuyện cô bị rơi xuống suối được anh này vớt lên, cứu chữa như thế nào. Nghe xong bố mẹ Pằng
cám ơn anh không sợ nguy hiểm cứu sống con
gái ông, không ngại đường xa đưa con ông về nhà. Biết tin dân bản thắp đuốc đến hỏi thăm, ai cũng cảm phục quý mến anh.
Nhìn bộ quần dân tộc
Nùng anh mặc, bố Pằng nói với anh bằng tiếng Nùng chưa sõi nghe câu được câu
chăng. Chú Chô em của bố Pằng
làm giáo viên điểm trường thôn,
nói tiếng phổ thông với anh. Lúc ấy mọi người mới biết anh tên là Cháng Seo Khún làm Y sỹ ở trạm y tế xã anh.
Bố mẹ Pằng
mời anh Khún ở lại ăn cơm, sau bữa cơm bố cô hỏi:
- Anh Khún có vợ chưa?
Anh Khún trả lời:
- Cháu chưa có vợ.
Bố mẹ Pằng biết, cô
với Páo yêu nhau, đã nhiều lần nói với Pằng:“ Thằng Páo hay uống rượu say,
không chăm làm việc, hay đi chơi”. Bố mẹ Pằng không thích Páo.
Bố Pằng nói với anh
Khún:
- Cám ơn anh đã cứu
con gái tôi, anh phải lấy nó làm vợ thôi.
Anh Khún
lúng túng, không hiểu vì sao bố cô
Pằng lại nói thế. Chú Chô
tiếp lời giải thích, ngắn gọn:
- Anh đã nhìn thấy của nó, anh đã cầm vào ngực nó,
nhiều người biết rồi, anh phải lấy nó
thôi.
Anh cố giải thích:
- Trách nhiệm của
thầy thuốc gặp người bị nạn, cháu phải cứu chữa, không phải chỉ riêng em Pằng,
ai bị đuối nước, cũng phải làm như
thế mới cứu sống được.
Mặc dù vậy, gia đình
Pằng vẫn một mực giao cô cho anh, phải lấy về làm vợ. Anh nói về hoàn cảnh gia
đình nghèo khó, lại khác dân tộc, phong tục tập quán khác nhau, ngôn ngữ bất
đồng sau này cô ấy khổ. Bố Pằng nói:
- Sướng khổ cũng phải
chịu thôi, trời đã cho nó thế rồi.
Nhà anh nghèo,
có vài thửa ruộng bậc thang, ba bốn đám nương trồng khoai, trồng sắn, xa nguồn
nước không đào được ruộng. Mỗi năm thiếu ăn đến ba bốn tháng. Khi được Nhà nước đầu tư
làm mương đưa nước về, gia đình đào thêm ruộng,
nhà mới đủ cơm ăn. Nhà nghèo phong tục cưới vợ của dân tộc Nùng phải có trâu, từ
lúc ăn hỏi đế lúc cưới cũng phải có ba
con lợn tạ, nào là gạo,
rượu, gà, tiền bạc, nhiều thứ
khác nữa. Mẹ anh thường phàn
nàn: “Nhà nghèo muốn có con gái gả bán lấy của, để lấy vợ cho con trai, càng
đẻ, lại chỉ có con trai, khổ quá!”.
Nhà anh có bốn anh em
trai, ai cũng cao ráo khỏe mạnh, chăm làm. Thằng em thứ hai và thằng út được
người yêu thương, cho gia đình sang hỏi về làm chồng ở rể. Thằng thứ ba bố mẹ
vay mượn lấy vợ cho nó, có con ra ở riêng tự làm ăn.
Còn anh, học hết cấp II, Trung tâm Y tế
huyện mở lớp y tá thôn bản, anh xin đi, học xong được vào
làm ở Trạm Y tế. Làm việc có trách
nhiệm tận tình, Phòng y tế huyện cho
anh đi học trường Y của tỉnh. Ra trường, có bằng Y sỹ
được phân công về Trạm Y tế xã làm việc. Gần nhà, tiện cho anh chăm sóc bố mẹ
già. Học hành suốt, nhà nghèo, đã hai bảy tuổi anh vẫn chưa lấy được vợ.
Pằng đã khỏe, ngồi trong buồng cùng bạn. Nghe bố nói cho anh Khún lấy làm vợ, mới ngó qua cửa sổ nhìn ra ngoài. Bên ánh lửa bập bùng, củi gỗ Sa Mu sáng rực, anh Khún hồng hào, to cao khỏe mạnh, nói
chuyện từ tốn. Pằng lại nghĩ đến anh Páo.
Đêm trăng sáng, nghe
tiếng đàn môi da diết gọi, Pằng không cầm được lòng, trốn ra núi chè Shan tuyết
sau nhà, gặp Páo nói chuyện. Páo hẹn xuống chợ phiên, nhờ bạn kéo Pằng về làm
vợ.
Từ hôm ấy Pằng bồn
chồn khắc khoải, đêm đêm thao thức mong chờ ngày chợ đến. Hẹn mấy bạn gái đi
cùng, để Páo rủ bạn trai kéo Pằng, thì có các bạn gái của cô tranh giành với
họ.
Tối thứ bảy Pằng
không ngủ được. Con gà vừa gáy, đã đi gọi bạn Súa, bạn Dếnh và mấy người bạn
gái xuống chợ. Gần đến chợ Páo đã đón, nắm bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của Pằng. Cảm
giác ấm áp hạnh phúc thân thương, làm đôi má Pằng bỗng ửng hồng. Pằng như người
say rượu, lâng lâng nhẹ bước theo Páo dắt vào chợ.
Pằng đã mong cuối
buổi chợ Páo sẽ cầm tay như thế kéo về. Vậy mà khi gặp bạn, Páo lại bỏ Pằng đi chơi với bạn. Vì Páo mà Pằng bị ngã xuống
suối, từ chiều đến giờ chắc Páo đã biết tin, sao không thấy sang thăm. Mệt mỏi,
buồn giận Páo, đôi tai của Pằng để ra ngoài cửa ngóng tiếng Páo nói, tiếng bước
chân Páo vào nhà. Pằng trách Páo vui bạn không nghĩ cho mình. Cũng may được anh Khún cứu, nếu
không Pằng đã làm con ma suối rồi.
Pằng nghĩ anh Khún cứu mình, nhìn thấy hết rồi, phải lấy anh ấy thôi. Páo sẽ không chịu được
người khác nhìn thấy vợ mình.
Lấy anh Khún, Páo sẽ không trách vì việc sảy ra Pằng không muốn thế. Bố mẹ đã
nói với anh Khún rồi, không lấy Páo được nữa. Páo không thương Pằng, nếu thương
đã chạy đến rồi. Pằng chỉ muốn khóc thôi.
Hôm nay Pằng mới biết
anh Khún, mà đã phải lấy làm chồng rồi.
Được bạn mời uống
rượu, Páo rất vui, tự hào như khoe với Pằng và các bạn, mình có nhiều bạn bè ở
bản xa. Bát thắng cố dê nóng hổi bốc khói nghi ngút, chấm với nước muối ớt giã
hạt tiêu rừng, thảo quả thơm ngon vơi lại đầy, rượu cạn lại rót. Các bạn Páo
mời rượu nhiệt tình, ai cũng vui vẻ chếnh choáng say. Mấy anh bạn của Páo níu
kéo, sang nhà họ chơi, đến Chúng Chải gặp Mỷ con ông Trưởng bản, nói chuyện với
nhau. Páo nhớ ra việc kéo vợ đã nói với bố mẹ rồi, Vui bạn, tỏ ra mình có uy
lực Páo nhờ bạn kéo cô Mỷ về nhà.
Páo nghe người nhà
nói chuyện Pằng bị ngã xuống suối, được anh Khún cán bộ y tế xã Coóc Riếu cứu
đưa về nhà. Páo không dám đi thăm, sợ các bạn biết mình đã có người yêu, hơn
nữa sợ Mỷ mới về đến nhà buồn. Páo không đến hỏi thăm mà còn cho thế là may,
không phải nói với Pằng những lời khó nói nữa.
Anh Khún bỗng nhiên
phải lấy vợ, với anh quá bất ngờ, anh chưa biết phải làm thế nào, anh nói với
bố mẹ Pằng:
-
Hai bác cho cháu lấy em Pằng, cháu cám ơn gia đình. Cháu về nói chuyện với bố
mẹ cháu, rồi cháu sang thưa chuyện với bác sau. Gia đình cháu nghèo, cô Pằng
lấy cháu sẽ vất vả, khổ lắm.
Rồi anh xin phép về.
Bố Pằng dặn:
- Anh về nói chuyện
với bố mẹ, sang đón Pằng về sớm, để dân bản khỏi nói chuyện nhiều về nó.
Đêm khuya, con đường mòn quanh chân núi vắng vẻ, không một
bóng người, tiếng đêm, tiếng xạc xào của lá rừng, tiếng chân ngựa đều đều. Ngồi
trên lưng ngựa anh Khún nghĩ lại những
chuyện đã xảy ra. Trong lòng thấy vui đã cứu được Pằng
sống. Gặp người bị nạn phải cứu, dùng thủ thuật cứu chữa, giành giật sự sống
cho họ là trách nhiệm. Vậy mà gia đình
bác ấy lại bắt phải lấy Pằng, mình chưa biết gì về cô ấy. Nhớ nét mặt dịu hiền, làn da trắng hồng
của cô gái Mông xinh đẹp, ở cách xa mười mấy cây số. Gia đình Pằng quý mến, không
phân biệt dân tộc, không quan niệm giàu nghèo, mà
một mực gả con gái yêu
cho mình, hay đó là số phận.
Như có gì đó thôi
thúc, anh muốn về nhà ngay. Về đến xã đã hơn hai giờ sáng, dù không phải là phiên trực, với thói
quen đưa chân anh về Trạm y tế. Mọi người ngủ say, phòng bệnh không có bệnh nhân nào còn thức, anh yên tâm về
nhà.
Vừa đến chân cầu
thang đã nghe tiếng mẹ:
- Con về muộn thế?.
Anh “ Vâng” rồi lên
nhà gọi bố dậy nói chuyện.
Anh kể cho bố mẹ nghe chuyện cứu cô gái Mông
tên là Pằng ở Sỉn Khâu, gia đình
bắt phải lấy cô ấy. Nghe xong bố anh bảo:
- Đạo
lý dân tộc là thế, con phải
lấy nó rồi. Nhà mình nghèo nó có chịu không?
Mẹ anh lại hỏi về lễ cưới xin của dân tộc Mông như thế nào, nhà mình có lo được hay
không? Anh nói:
- Bố mẹ đồng ý cho con lấy vợ, cưới xin của người Mông không nhiều như
mình dâu, mọi việc con tự lo, con làm cán bộ có lương rồi.
Không để gia đình Pằng chờ lâu, ba ngày sau anh Khún cùng chú Xèng và mấy anh em đại
diện bố mẹ mang đôi gà thiến, rượu, gạo nếp, gạo tẻ sang Sỉn Khâu hỏi vợ.
Bố mẹ Pằng phấn khởi gọi anh em về đông đủ. Lễ ăn hỏi diễn
ra thuận lợi vui vẻ. Bác Sì bác ruột của Pằng, ngồi trầm ngâm, bấm đốt ngón tay
rồi báo:
- Hôm nay là ngày
tốt, cho Pằng về bên ấy chơi.
Bố mẹ Pằng muốn để
cho con tự quyết định, trước khi cưới. Cho Pằng sang nhà anh Khún chơi vài ngày
xem cuộc sống bên nhà chồng, có ở được không, khi Pằng đồng ý thì sẽ tiến hành
hôn lễ.
Gần tháng sau, đám
cưới được tổ chức, có đủ sắc màu của hai dân tộc Nùng và dân tộc Mông mọi người
bên nhau vui vẻ, chúc mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ.
Dân bản ai cũng khen
cô dâu người Mông xinh đẹp, chăm chỉ chịu khó, việc gì cũng biết làm, chăm nuôi
lợn gà mau lớn, trồng rau, làm nương làm ruộng, mùa nào thứ ấy, nhà cửa ấm áp
sạch sẽ gọn gàng. Kinh tế gia đình mỗi năm khá dần lên.
Pằng sinh cho anh Khún một cậu con trai khôi ngô đã vào học lớp hai và cô con gái lên hai khỏe mạnh xinh
đẹp, bố mẹ anh thương
con dâu làm việc vất vả, bà
yêu thương chăm sóc cháu, giúp con dâu nấu cơm, chăn lợn, chăn gà. Ông chăn
trâu bò, cắt cỏ nuôi cá. Những lúc mùa vụ rỗi rãi mẹ chồng dạy Pằng ngâm chàm
nhuộn vải, cắt khâu áo váy dân tộc Nùng, trong bản ai cũng khen vợ anh Khún
khéo tay thêu những đường nét, hoa văn trên
địu, trên áo đẹp.
Từ ngày về làm dâu
Pằng thương quý, tôn trọng bố mẹ
chồng, chưa bao giờ bố mẹ anh phải phiền
lòng. Mọi công việc trong nhà,
ngoài ruộng, trên nương bố mẹ đều giao cho vợ
chồng Pằng quyết định cả. Thóc gạo, ngô khoai, con lợn, con gà, mớ rau không
dùng hết, mẹ chồng sắp vào pà cho Pằng mang xuống chợ bán. Tiền nong vợ chồng quản lí chi tiêu,
gia đình hòa thuận hạnh phúc.
Cũng có lúc Pằng thấy
buồn, chồng đi làm, khoác trên mình bộ áo Blu trắng toát không một vết bụi,
trông nhàn nhã thảnh thơi. Còn Pằng mặc bộ áo váy Nùng đen từ đầu đến chân, bận
rộn suốt ngày chẳng mấy lúc được rảnh rang. Lúc mới về nhà chồng, nhìn thấy anh
bảnh bao, sạch sẽ Pằng thấy vui, tự hào về anh. Nhưng nhìn lại Pằng thấy chồng
với mình khác biệt nhiều quá. Anh đi làm cả ngày, buổi trưa về ăn cơm, tối về
nhà ngủ, một tuần có mấy ngày phải trực đêm. Những lúc lên nương một mình thui
thủi, nhìn thấy vợ chồng người ta đi đâu cũng có nhau Pằng cũng mủi lòng.
Anh cũng biết thế,
nên ngoài giờ làm việc, tranh thủ cày bừa giúp vợ. Công việc quanh năm suốt
tháng là vậy đôi khi Pằng cảm thấy mình đơn độc lẻ loi.
Phiên chợ huyện cuối năm đông đúc, người đi sắm tết,
người xuống chơi chợ. Trên bản Mông
người ta mang xuống chợ bán từng bó cành đào chúm chím
nụ hoa. Những gùi lá dong trĩu nặng trên vai cô gái Tày. Nụ cười tươi rói của cô gái Nùng bên
những bó mía xương gà cây to tròn vàng óng, mời chào khách mua làm cây gậy bên
bàn thờ tổ tiên. Hàng tết bày la liệt dọc đường phố huyện, bánh mứt kẹo, đường
phên, cả những tờ tranh tết sắc
màu rực rỡ. Mọi người gặp nhau ai
cũng phấn khởi vui mừng, kẻ buôn, người bán tấp
lập, không khí phố huyện đã vào
xuân.
Anh Páo
gặp Pằng sau nhiều năm,
trông vẫn gọn gàng xinh đẹp, đôi mắt sáng lên niềm vui khi gặp Páo. Hai người ngồi dưới gốc cây Pay già cành lá xum
xuê tỏa bóng, như che bớt cái nắng dịu dàng của ngày đang dần chuyển tiết sang
xuân, kể cho nhau nghe chuyện ngày xưa cho đến chuyện hiện
tại của gia đình.
Với nét mặt buồn, đôi
mắt lúc nào cũng nhìn xuống đất, giọng nói nhỏ, tỏ ra ân hận nuối tiếc anh Páo
nói với Pằng: “ Hôm ấy, anh định kéo
Pằng về làm vợ, khi uống rượu say, anh vui bạn để Pằng ở chợ, đi chơi. Vì say
rượu, vui bạn anh đã kéo Mỷ về nhà. Nghe tin Pằng gặp nạn được anh Khún cứu,
anh tự ái không sang thăm…Vợ chồng anh khi có con gái, ra ở riêng, vợ mang thai
đứa thứ hai chửa ngoài dạ con, phải đi bệnh viện mổ, bây giờ không sinh được
con nữa. Vợ anh gầy yếu, ốm đau bệnh tật, chẳng làm được việc, anh phải lo toan
gánh vác…Nếu anh không vui bạn mà lấy Pằng thì cuộc sống của anh sẽ tốt hơn.
Đến bây giờ Pằng đã có gia đình có con trai con gái, cuộc sống yên ấm rồi…Anh
vẫn còn yêu Pằng, gia đình khó khăn, anh lại càng nhớ…”
Nghe anh Páo nói,
tình cũ nghĩa xưa như cháy dần lên. Tiếng đàn môi ngày nào giéo giắt, những đêm
trăng hai đứa tìm nhau, ánh mắt yêu đưa chân nhau về nhà làm lễ Goau Taox, tất
cả như hiện lên ùa vào lòng, tình yêu trỗi dậy. Không trách anh Páo về những
chuyện đã qua, mà Pằng còn thương anh vất vả, thông cảm, muốn được chia sẻ cùng
Páo.
Pằng theo anh Páo cả
buổi chợ, đến tận chiều tối mới bịn rịn chia tay ra về. Anh Páo hẹn, sẽ đưa Pằng đi chơi chợ cửa
khẩu vào thứ bảy tuần tới. Trước tình
cảm của người yêu cũ Pằng nhận lời.
Về nói với chồng, thứ bảy tuần sau cho Pằng đi chơi chợ cửa
khẩu, lên đấy xem hàng mua cho rẻ để chuẩn
bị đón tết. Anh Khún hỏi đi cùng ai, Pằng không dám nói đi
với anh Páo, mà nói là đi với mấy chị em bên ngoại. Anh đồng ý, rồi dặn:
- Đi chợ cửa khẩu ở bên mình
thôi, không sang bên Trung Quốc đâu,
phụ nữ sang bên ấy họ lừa mang bán đấy.
Pằng nghĩ: mình chỉ
đi chợ cửa khẩu Xín Mần thôi, không sang chợ Đô Long Trung Quốc. Đi cùng anh
Páo lên chợ cửa khẩu Xín Mần rồi về.
- Em đi chợ bên mình
cùng nhiều người mà, không sang chợ Trung Quốc đâu.
Thấy Pằng nói thế anh
Khún yên tâm, đồng ý cho vợ đi.
Tối thứ sáu, nằm bên
chồng, trong lòng rạo rực, không ngủ được, Pằng trở dậy sắp xếp thứ này, thứ
nọ, thay bộ váy áo Nùng, mặc bộ váy áo Mông. Anh Khún nghĩ Pằng đi với chị em
bên ngoại, nên mặc như thế cũng phải.
Hai giờ sáng Pằng đã
đeo quẩy tấu, cầm đèn pin xuống núi. Trời cuối năm tối đem như mực, không một
cánh sao, giá rét như kim châm vào đầu ngón tay, ngón chân lạnh buốt, tê dại.
Con đường đất đỏ ướt đẫm sương trơn tuột, thoăn thoắt bước chân nhẹ nhàng như
chạy, Pằng đến với người yêu. Mới ba giờ sáng, anh Páo
đã đi xe máy đến đón ở đường ô tô dưới
chân núi, đưa Pằng đi chợ.
Chợ cửa khẩu, ngày
giáp Tết nhộn nhịp đông vui, hàng Việt Nam, hàng Trung Quốc bày la liệt kín cả
mấy khu nhà chợ. Xe tải xếp thành hàng dài, xe bốc hàng xuống, xe xếp hàng lên,
ồn ào náo nhiệt, tất cả như vội vã chạy đua với thời gian. Anh Páo dẫn Pằng vào
chợ Xín Mần đi vòng qua các quầy hàng, rồi bảo sang chợ Đô Long ăn sáng: “Bên
ấy phở Trung Quốc ngon lắm!”. Đi bên anh Páo, Pằng chẳng còn nghĩ được gì, quên
lời chồng dặn, cứ vui chân nhẹ bước đi theo. Sang chợ Đô Long, hai người vào quán
ăn phở uống rượu. Đang vui vẻ anh Páo nói
với Pằng:
- Cùng anh vào Chín Sang chơi, trong ấy đẹp lắm, rất nhiều hàng
đẹp lại rẻ, anh đã sang nhiều lần rồi.
Đi cùng người yêu
Pằng không thấy sợ. Trong lòng phấn chấn, đôi mắt lúng liếng vì rượu, vì tình sáng
lên hứng khởi, Pằng nghe lời để anh Páo được vui.
Hai người lên xe chở khách, lao vun vút vào nội địa Trung Quốc. Đi được một lúc, Pằng đã ngủ say.
Chiều xe đến bến trả
khách, có người gọi, Pằng bừng tỉnh, không thấy anh Páo
đâu, xung quanh toàn
người xa lạ. Người đàn ông Trung Quốc ngồi
bên, từ khi lên xe nói tiếng Mông với Pằng:
- Thằng Páo bán mày cho tao lấy tiền, về Việt
Trời đất
tối sầm, Pằng lảo đảo đứng không vững, giữa đất khách quê người, không một bóng người quen, không biết đi đâu, về
đâu. Cổ nghẹn lại đắng ngắt, nước mắt giàn giụa. Pằng nói dối chồng để được đi
chơi cùng người yêu, bị người yêu lừa bán lấy tiền, đau khổ, buồn tủi. Những
bước chân vô định theo người đàn ông xa lạ, chẳng còn nghĩ được gì, bao phủ lên
Pằng là một màn đêm đen dày đặc.
Tối thứ bảy ấy
không thấy vợ về, anh Khún nghĩ: Pằng theo chị em về
nhà ngoại. Hết ngày Chủ nhật, vẫn không
thấy vợ về, sao lạ thế, Pằng chưa đi như thế bao
giờ. Sáng thứ hai được nghỉ bù ngày chủ
nhật trực trạm, anh Khún
sang nhà ngoại đón vợ. Lúc ấy
bố mẹ vợ mới biết, Pằng đi chợ cửa khẩu đã hai ngày chưa về. Ở bản chỉ có mình anh Páo lên chợ cửa khẩu
mua phân đạm. Anh
Khún nghe người ta nói: “Thấy chị Pằng ngồi sau người đàn ông đi
xe máy”. Anh Khún tìm đến nhà anh Páo hỏi:
- Anh đi chợ cửa khẩu, có thấy Pằng
không?
- Tôi không thấy Pằng, tôi đi chợ mua
phân đạm về từ chiều thứ bảy rồi.
Páo nói xong vội đi làm gì đó, không nói
chuyện với anh Khún.
Anh
Khún lên cửa khẩu hỏi thăm xem có ai biết Pằng
ở đâu không? Không ai biết!
Anh đến Đồn biên Phòng hỏi, Pằng có xin giấy sang Trung Quốc chơi không? Không! không ai biết.
Không khí buồn thảm
trùm lên gia đình bé nhỏ, cảnh con mất mẹ, chồng mất vợ, cha mẹ mất con. Thằng con lớn nhớ mẹ, mắt
nó ngơ ngác, ngồi đầu sàn nhìn về con đường mẹ nó vẫn đi về ngóng đợi, chẳng
chịu ăn uống gì, cả ngày lần lì không nói. Con bé, suốt ngày quấy
khóc tìm mẹ bất kể đêm ngày.
Ai bế, nó cũng ngả người
hướng ra đường đòi đi tìm mẹ về
cho nó. Mẹ anh, tấm lưng
còng, cõng cháu trên lưng nước mắt vòng quanh, hai bà
cháu khóc. Mọi việc dồn lên đôi vai anh, cha mẹ già, con còn nhỏ dại nheo nhóc,
cảnh nhà buồn thảm.
Mẹ anh thương con
dâu, thương cháu chẳng thể cầm lòng. Bà xuống chợ tìm những người ở Trung Quốc sang buôn bán ở chợ Cốc
Pài hỏi dò xem có ai biết con dâu bà ở đâu không? Họ nói có mấy phụ nữ Việt
Anh Khún
xin nghỉ phép, đi chợ Chín Sang
hỏi dò, họ chỉ đường cho anh
đến thôn Lao Chải, là thôn người Miêu. Vượt qua bao khó khăn cách trở,
đường xá xa xôi, vợ chồng gặp nhau, Pằng
vui mừng theo chồng về.
Pằng về nhà trong niềm
vui của mọi người trong gia đình.
Mẹ chồng mừng quá cứ nắm tay, như giữ lấy Pằng không để tuột khỏi tay bà. Hơn ba năm, từ ngày ra đi, đến lúc về
con trai lớn đã học lớp năm.
Nhìn thấy mẹ nó chạy đến ôm chầm lấy, nó bảo: “Mẹ không đi, ở nhà với con ò”.
Cô con gái nhỏ đã vào lớp mẫu giáo năm tuổi, nó nhìn mẹ chằm
chằm. Pằng xòe tay ra bế, nó khóc, trốn vào sau bà nội. Pằng tủi thân vừa khóc
vừa dỗ dành, ôm các con vào lòng. Dân
bản đến hỏi thăm động viên, ai cũng cảm
thông với Pằng.
Pằng ở nhà được hai lăm
ngày, nhà đang vui, thì anh Páo đón đường gặp riêng:
- Pằng à, phải quay
lại nhà chồng bên Trung Quốc thôi. Ông Lềnh đòi anh trả vợ cho nó, Pằng không
về nó giết anh đấy.
Hơn ba năm Pằng sống
ở nhà ông Lềnh, được chứng kiến họ làm những điều độc ác, họ không nói chơi,
dọa người đâu, mà đã nói là làm thật đấy. Anh Páo lấy tiền của ông Lềnh, dùng hết rồi. Anh Páo nhà nghèo
vợ ốm đau bệnh tật như thế không có tiền trả, ông Lềnh đòi vợ chứ không đòi
tiền. Không đành lòng để anh Páo chết không cứu. Thương anh Páo, Pằng trốn
chồng con, bố mẹ, tự nguyện ra đi, vì sợ họ giết Páo. Lại một lần nữa Páo đưa Pằng sang Trung Quốc.
Anh Khún nghĩ: Thương
vợ, bỏ qua mọi chuyện, để cuộc sống gia đình yên ổn, mình cần có Pằng, các con
cần có mẹ, không để cho người khác lấy đi người vợ thương yêu của mình. Pằng
không biết tiếng phổ thông, không biết chữ, quanh năm suốt tháng chỉ biết làm
lụng vất vả, hiểu biết xã hội nông cạn, nhẹ dạ cả tin người khác. Thông cảm với
tình yêu đầu của Pằng, nếu không bị đuối nước, thì Pằng đã lấy anh Páo rồi.
Mình là người mang lại sự sống cho Pằng, bố mẹ vợ đã trao gửi Pằng cho mình,
như định mệnh, là duyên trời cho phải gìn giữ. Mình yêu thương Pằng, các con
cần có mẹ phải cố gắng cứu Pằng về.
Anh lại sang Lao Chải
đến nhà ông Lềnh nhiều lần, có lần sang ở lại mấy ngày nhưng vẫn không gặp được
Pằng. Hình như biết anh sang, họ bắt Pằng đi trốn, hay chính Pằng biết anh sang
đón về, đã cố tình tránh gặp mặt. Biết không thể đón Pằng về như lần trước, anh Khún trở về làm đơn gửi chính
quyền và Đồn biên phòng nhờ
can thiệp, giúp đỡ.
Bảy tháng sau ngày anh gửi đơn, thì nhận được giấy báo
của Đồn biên Phòng, anh Khún vui mừng
lên cửa khẩu đón vợ.
Pằng về nhà với cái bụng chềnh ềnh, mang thai đến tháng thứ tám. Cả gia đình anh vui mừng đón,
không ai trách cứ, chăm sóc Pằng sinh nở, mẹ tròn con vuông. Bé Min càng lớn
càng đẹp trai bụ bẫm khỏe mạnh, khổ nỗi có người sang chơi, cứ nhìn chằm chằm
vào mặt nó, như cố tìm ra điều gì đấy, gọi nó là thằng Trung Quốc. Với con mắt
thiếu thiện cảm của họ, bà ôm cháu vào lòng, như cố che những gì người ta lục
tìm, soi mói về đứa cháu bé bỏng tội nghiệp của bà.
Pằng thương con,
trong lòng ngổn ngang, mỗi khi anh Khún bế cưng nựng cho nó ăn, thương yêu nó,
thì Pằng lại cảm thấy thương anh, mà không thể nói thành lời.
Bé Min lẫn chẫm tập
đi, bi bô gọi bà, gọi bố mẹ, thì vợ chồng anh Vư ở Đông Chứ lấy nhau được năm, sáu năm không có
con, đến gặp riêng chị Pằng
xin thằng bé về nuôi làm con. Sợ người nhà biết không cho, chờ anh
Khún đi vắng, chị Pằng hẹn với vợ chồng anh Vư đợi ở cuối bản, rồi địu con đi
làm nương, mang ra cho. Chị Pằng đi làm cỏ ngô đến tối về, không thấy con, anh
Khún hỏi:
- Con trai đâu?
- Cho họ lấy làm con
rồi.
Chị trả lời không dám
nhìn anh.
Sáng hôm sau anh Khún
tìm đến nhà anh Vư xin lại con. Vợ chồng anh Vư không trả còn nói:
- Nó không phải con
của anh, nó là con riêng chị Pằng, chị ấy đã cho tôi rồi.
Thằng bé nhìn thấy
anh Khún khóc ré lên gọi: “Bố, bố” xà xuống theo, anh chạy lại, định bế nó. Vợ
anh Vư vội vàng mang bé Min chạy trốn. Đuối lý anh đành quay về.
Không thắng lý, cổ
nghẹn đắng, thương con muốn khóc, thằng bé vợ mình đẻ ra, mình chăm sóc hai mẹ con từ lúc nó chưa sinh,
đến giờ con đã biết đi, biết nói, thế mà họ lại bảo không phải con của mình.
Đúng là không phải là con ruột của mình, nhưng mình chăm sóc thương yêu, nó là
con mình chứ. Vợ chồng anh Vư mới đón nó về được một ngày lại có quyền hơn mình. Bên tai cứ văng
vẳng như có tiếng khóc đòi bố của nó, nức nở ai oán như con Pả lúc mẹ nó bị bán
sang Trung Quốc, xót xa lắm, không cầm lòng được.
Anh về nói với Pằng:
- Anh sang con theo,
anh không được bế, nó khóc lắm. Con còn bé, nó cần có mẹ, có bố, sang đấy con khóc
nhiều, thương lắm, vợ chồng mình sang đón con về.
Pằng ôm mặt khóc,
không nói gì, đau lòng lắm.
Anh Khún cùng chị
Pằng lên Đông Chứ đón con. Vợ chồng anh Vư không trả. Pằng năn nỉ mãi vợ anh Vư
mới giao lại con, với điều kiện là vẫn cho bé Min làm con họ, thỉnh thoảng vợ chồng anh ấy sang thăm
con, và được đón con về Đông Chứ chơi.
Tòa án xét xử Hầu Seo
Páo đi tù về tội buôn bán phụ nữ qua biên giới. Đền bù thiệt hại cho gia đình
chị Pằng.
Khi nghe Tòa thẩm vấn
luận tội, bằng tiếng Mông chị Pằng mới hiểu: Páo không yêu Pằng. Páo chỉ lợi
dụng tình yêu, dụ dỗ, lừa Pằng đưa sang Trung Quốc bán lấy tiền, làm khổ Pằng
và gia đình.
Tình yêu thuở đầu đời
thơ mộng, của người con gái Mông nơi bản xa, vốn tính thật thà đã tin lời người
yêu cũ, Pằng đã quên bản thân, bỏ chồng con, gia đình, bỏ cuộc sống đích thực
của chính mình, theo Páo. Gia đình đang yên ấm hạnh phúc, bỗng chốc rơi vào
cảnh gieo neo. Các con nhỏ dại bơ vơ côi cút, bố mẹ già phải nuôi cháu nhỏ bảy
năm trời. Mẹ chồng và chồng phải vất vả lặn lội đường xa, đi tìm nhiều lần. Bản
thân Pằng chịu đắng cay tủi nhục, vừa phải làm việc vất vả, lại vừa phải làm vợ
cho hai bố con ông Lềnh.
Pằng ân hận vì yêu mù
quáng, không biết Páo hại mình, không nhìn nhận được cái tốt, cái chưa tốt. Tủi
thân, hổ thẹn với mọi người và chính bản thân, cô gục xuống khóc nức nở.
Chị Pằng về đoàn tụ
với gia đình, được chồng cảm thông, yêu thương che trở. Bố mẹ chồng thương con
dâu phải chịu số phận vất vả long đong. Dân bản chẳng ai chê cười, họ thương
cảm đùm bọc động viên cô yên tâm vui sống với gia đình, làng bản.
Thời gian sẽ trôi đi,
câu chuyện hôm nay không ai nhắc lại nữa, nhưng vết thương lòng của mỗi người
trong gia đình, vẫn còn vẹn nguyên đó nỗi đau.